Blog này chuyên cung cấp các tài liệu miễn phí cho các bạn cần. Hãy click vào baner quảng cáo để ủng hộ mình nhé !

Tản mạn đầu Xuân: Câu chuyện kinh tế Việt Nam - Phần I (Nguyễn Đại Hoàng)

Bài viết dưới đây do anh NĐH viết "tản mạn đầu Xuân" và gửi cho tôi đọc để chia sẻ, kèm lời dặn là chưa đăng lên vội vì anh còn muốn gọt dũa lại cho dễ đọc hơn. Nhưng sau khi đọc xong thì tôi vẫn quyết định đăng lên vì sự quan trọng của nó, đặc biệt là sau khi tôi xem xong phóng sự trên VTV3 chiều nay về sự phá sản của ngành cá tra của VN. 

Nói thêm, khi xem phóng sự nói trên, tôi có ngạc nhiên thốt lên, "Sao trước đây ngành cá tra của mình phát triển lắm cơ mà, nay lại phá sản như vậy?". Và ông xã tôi đã trả lời, "Thì VN mà, làm ăn giả dối, cạnh tranh, chèn ép lẫn nhau, thiếu tầm nhìn, thiếu thông tin vv; ngành nào cũng vậy chứ có riêng gì ngành cá tra!". Quả thật, khi nghe ông xã tôi nói như vậy thì tôi chỉ có thể đồng ý chứ không còn có thể nói thêm gì được, và quyết định đem bài viết của anh NĐH ra đọc lại, rồi đăng lên đây để mọi người cùng đọc và suy nghĩ.

Cuối cùng, rất cám ơn anh NĐH đã chia sẻ, và xin lỗi anh NĐH vì đã đăng lên mà chưa được phép của anh nhé, nhưng tôi tin là anh sẽ không giận. Bài viết này cũng chỉ mới có phần 1; phần 2 của nó chưa biết bao giờ mới có, nhưng rất mong là anh NĐH sẽ bỏ thời gian mà viết tiếp phần 2.
----------------


Tản mạn đầu Xuân : CÂU CHUYỆN KINH TẾ VIỆT NAM – Phần I
Chỉ mới gần đây thôi, một số nhà nghiên cứu trong nước và giới quan sát quốc tế còn nói đến Việt Nam như nói đến một điển hình, hay một biểu tượng  của thành công. 
Nhận định về sự thành công của Việt Nam dường như là có cơ sở nếu chúng ta căn cứ  vào các số liệu  kinh tế - xã hội ghi nhận được từ trong hơn 2 thập niên qua ,  kể từ thời kỳ Đổi Mới (1986-2010) 
VN là một trong những quốc gia có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao nhất thế giới  : trong giai đoạn 1986- 2010 tăng bình quân 6,8%, trong giai đoạn 1991 – 2010 tăng bình quân 7,4% . Đặc biệt nếu tính từ năm 1981 tới nay , thì đã tăng trưởng liên tục  trong 30 năm , vượt  xa kỷ lục của Hàn Quốc  (23 năm), và hiện chỉ đứng sau Trung Quốc (32 năm). Tỉ trọng xuất nhập khẩu  trong nền kinh tế tăng gấp 10 lần trong vòng 2 thập niên  (1988 – 2008) . Việt Nam còn được ghi nhận như là một trong những quốc gia gây ấn tượng nhất thế giới khi có thể làm giảm tỉ lệ nghèo đói từ  58% dân số năm 1993  , xuống còn  13% năm 2008 .
Tổng sản lượng quốc nội GDP tăng 60 lần , từ khoảng 1,5 tỉ USD năm 1988 lên đến  hơn 90 tỉ USD năm 2009 . Theo số liệu của tổ chức World Bank năm 2011, GDP của Việt Nam là trên 120 tỉ USD. GDP bình quân đầu người từ chỗ chỉ vào khoảng hơn 100 USD  đầu thập niên 1990 đã lên tới 1047USD năm 2008 , 1060 USD năm 2009 , 1200USD năm 2010 , và 1374 USD năm 2011. Với thu nhập bình quân đầu người trên 1000USD, VN  xem như đã  thoát ra khỏi nhóm các nước có thu nhập thấp nhất (dưới 935 USD) .
Phải thừa nhận  những số liệu  nói trên là rất ấn tượng , thế nhưng có lẽ chúng ta cần xem thêm một số thông tin khác sau đây.
Một số thông tin khác
GDP bình quân đầu  người của Việt Nam – theo thống kê năm 2011 của tổ chức tiền tệ thế giới  IMF – là trên 1374 USD/ năm  tăng hơn 10 lần sau 2 thập niên , nhưng  đây lại là mức thu nhập mà một số nước thuộc khu vực Đông Nam Á  đã  đạt được từ hơn 15-20 năm trước ! Còn hiện tại - theo số liệu thống kê năm 2011 của IMF- tất cả đã rất khác :  Philippines trên 2300 USD, Indonesia trên 3500 USD, Thái Lan trên 5000 USD, Malaysia trên 10000 USD, Brunei  trên 38000 USD, và Singapore gần 50000 USD / năm!
Một thống kê khác cho thấy GDP bình quân đầu người của VN hiện  chỉ bằng khoảng  40% của khu vực Đông Nam Á , 26% khu vực Châu Á , và  khoảng 12% của Thế Giới !   
Theo Ngân Hàng Thế Giới ( WB ) với GDP  bình quân đầu người như hiện nay,VN vẫn nằm trong nhóm thu nhập thấp nhất châu Á , cùng với Bangladesh, Campuchia, Lào , Myanmar, Mông Cổ , Sri Lanka , Papua New Guinea , Nepal. 
(Theo quan điểm của Tổ Chức này  , thu nhập bình quân  đầu  người nằm trong khoảng 1000 – 2000 USD  vẫn bị xếp vào nhóm có thu nhập thấp) .WB  cũng cho rằng , để thoát ra khỏi khu vực có thu nhập thấp ,các nước ở ngưỡng thu nhập như Việt Nam , phải cần ít nhất 50 năm !
Nhưng gây sốc nhất có lẽ là Báo Cáo Phát Triển năm 2009 (cũng của WB ), tổ chức này cho rằng nền Kinh Tế VN tụt hậu 51 năm so với Indonesia, 95 năm so với Thailand  , và 158 năm so với Singapore! Vậy mà  đây chưa phải là số liệu tồi tệ nhất ,  trong một cuộc phỏng vấn được thực hiện năm 2006 , đại diện của Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế ( IMF ) cho rằng khoảng cách Kinh Tế giữa VN- Singapore lên tới 197 năm ! Nghĩa là gần 2 thế kỷ .
Một vài số liệu khác 
Singapore  với dân số  gần 5 triệu người diện tích khoảng 660 km2 , chỉ bằng khoảng 70%  dân số và chưa tới 30% diện tích của TP HCM . Thế nhưng nước này lại có GDP lên đến gần 240 tỉ USD  – gần gấp 2 lần của VN!  Thu nhập bình quân đầu người gần 50000USD/ năm. Cần biết rằng vào đầu thập niên 1960 , GDP của Singapore chưa tới 1 tỉ USD ! Thu nhập bình quân đầu người chưa tới 500USD / năm ! Như vậy sau 50 năm , GDP của Quốc Gia này đã tăng gần 240  lần , thu nhập bình quân đầu người tăng gần 100 lần 
Hồng Kông  diện tích 1100 km 2 , dân số 7 triệu , thế nhưng GDP lên tới  trên  240 tỉ USD, GDP bình quân đầu người trên 36 000USD .
Đài Loan , diện tích 36,000km2 , dân số 23 triệu người , GDP lên tới trên 450 tỉ USD , GDP bình quân đầu người khoảng trên 20000 USD.
Hàn Quốc , dân số  khoảng 48 triệu người , diện tích trên 100,000km2 , chỉ gần bằng  50% dân số ,  và chưa tới 30% diện tích của VN. Tài nguyên rất ít ỏi và kém xa Việt Nam. Chỉ  mới cách đây 3 thập niên  thôi , GDP của nước này chỉ xếp ngang mức của các nước nghèo ở châu Phi và châu Á . Thế nhưng ngày nay, con số này đã lên tới  trên 1100 tỉ USD , còn GDP bình quân đầu  người vào là trên 22000 USD/ năm.
Nhật Bản có dân số và diện tích nhỉnh hơn VN một chút : trên 377 .000km2 và 128 triệu người . Tài nguyên hầu như không có gì .Thế mà GDP của nước này lên tới 5000 tỉ USD , hơn 50 lần GDP của VN , còn GDP bình quân đầu người lên tới  trên 45000USD / năm ! 
Như  các thông tin trên đã chỉ ra , nền kinh tế Việt Nam chưa phải một lực lượng mạnh ngay trong khu vực Đông Nam Á , chứ chưa nói đến tầm châu Á và thế giới.
Vậy thì sự thực những gì mà nền kinh tế Việt Nam đang có là một vị trí cực kỳ khiêm tốn  và hơn thế nữa, đang chịu sự đe dọa của  nguy cơ tụt hậu vĩnh viễn  ,do khả năng thu hẹp khoảng cách về mặt định lượng đối với các nền kinh tế mạnh hơn là rất nhỏ .
Làm sao để Việt Nam có thể trở thành một nền kinh tế hùng mạnh ?  
Nói đến điều này không thể không nhắc đến  ảnh hưởng của một số  quan điểm hay phát biểu của các tổ chức    nhân vật  danh tiếng trên thế giới . Đa phần chúng là những sự khen ngợi đôi khi hơi quá mức , hoặc đơn giản dưới mức cần thiết . Vấn đề là chúng có thể gây hiểu nhầm nghiêm trọng trong một số bộ phận công chúng , kể cả một số nhà nghiên cứu .
Chẳng hạn vào năm 2009  sau khi Tổ Chức Hiệp Hội Kinh Tế Mới NEF (New Economics Foundation ) công bố Báo Cáo về Chỉ số Hạnh Phúc Hành Tinh HPI ( Happy Planet Index ) , với bảng xếp hạng cho 143 nước , trong đó Việt Nam đứng thứ 5 , thì rất nhiều tờ báo ở Việt Nam đã giật tít  “ Việt Nam lọt vào  top 5 nước hạnh phúc nhất thế giới ! ”
 .
Sự thực không phải vậy :  HPI là một chỉ số  mang tính chất tham khảo , nó không nói lên hạnh phúc con người , nó  biểu thị  phần nào cho“ hạnh phúc ” của môi trường và thiên nhiên của  quốc gia  được khảo sát , thực sự  nó chỉ là một cái tên có thể gây hiểu nhầm , như Việt Nam đã hiểu nhầm !
Một số tác giả lại có nhận định : Việt Nam là thiên đường đầu tư ! Sự thực không phải vậy  : Mỹ là nơi thu hút vốn đầu tư FDI cao nhất Thế Giới ( năm 2009 , Mỹ, Pháp , Anh dẫn đầu với 4500 tỉ USD , và Trung Quốc đứng thứ 8 với khoảng 500 tỉ USD ). Trong khi đó FDI tại Việt Nam chỉ vài chục tỉ USD , và còn không được xếp vào Top 30 !
Trong rất nhiều bài viết , và kể cả công trình nghiên cứu , chúng ta có thể tìm thấy những nhận định hết sức lạc quan về nền Kinh Tế của Việt Nam .Theo đó  việc Việt Nam trở thành Con Rồng Con Hổ  Châu Á  chỉ còn là vấn đề thời gian ! 
Trong phần khuyến nghị cho Việt Nam , nhiều tác giả đã nêu những ý kiến, và những giải pháp hết sức đơn giản đến mức khó tin ! 
Cựu Thủ Tướng Singapore Lý Quang Diệu , từng khuyên Việt Nam nên tập trung vào việc học Tiếng Anh , coi đó là chìa khóa để phát triển kinh tế  !
Giáo Sư Philip Kotler – cha đẻ của Marketing hiện đại , trong chuyến sang thăm Việt Nam hồi năm 2007 , từng khuyến nghị Việt Nam nên trở thành  thành Bếp Ăn của Thế Giới !    
                               
Những  thông tin và phát biểu  kiểu này ắt hẳn đã lan truyền sự lạc quan  đến nhiều tác giả , hoặc là góp phần làm nên những tư duy chủ quan.                  
      
Vậy thì cũng không có gì quá ngạc nhiên khi chúng ta thấy  một số  tác giả nêu ra những giải pháp với những động từ, cụm từ rất mạnh : đột phá , cạnh tranh , chạy đua , tăng tốc , đi tắt đón đầu , nhảy vọt , cất cánh , đuổi kịp và vượt 
Thế nhưng thực tế lại không có liên quan gì với  những từ ngữ  , những dòng viết hoặc những trang viết “ có cánh ” đó : mong muốn và khả năng thực hiện bao giờ cũng khác biệt.
Giải pháp đột phá chẳng hạn ,  đột phá thế nào khi  điểm mạnh và cơ hội của Việt Nam là quá mỏng manh và mờ nhạt  ? Nếu phải kể  ra một điểm mạnh đúng nghĩa nhất của Việt Nam , thì đó chỉ có thể là nền hòa bình mà đất nước này đang thụ hưởng mà thôi ! 
Nguồn nhân lực thiếu đào tạo của  Việt Nam giờ đây đang dần dần trở thành trở lực cho sự phát triển  ! Lao động giá rẻ không thể và không phải là điểm mạnh của Việt Nam . Tổ Chức WEF trong Bản Báo Cáo Cạnh Tranh Toàn Cầu năm 2008 chỉ rõ : "Chất lượng lao động được đào tạo là một trong những yếu tố kém nhất của nền Kinh Tế Việt Nam”
Cũng không thể  coi tài nguyên – môi trường  là điểm mạnh của Việt Nam được  nếu nhìn lại những gì đang diễn ra trong thực tế ! Vấn đề môi trường chẳng hạn , bây giờ đã là một điểm yếu của Việt Nam ! Theo một báo cáo về các chỉ số môi trường ổn định do trường Đại Học Yale ( Hoa Kỳ ) thực hiện năm 2006 thì Việt Nam đứng thấp nhất trong số 8 nước Đông Nam Á được khảo sát . Báo cáo về thay đổi khí hậu của Tổ Chức Ngân Hàng Thế Giới ( WB ) cũng cho thấy Việt Nam là một trong 2 quốc gia sẽ chịu ảnh hưởng lớn nhất của tình trạng băng tan. Nếu nhiệt độ tiếp tục tăng , Việt nam sẽ mất khoảng 17% sản lượng nông nghiệp ! 
               
Còn cơ hội của Việt Nam  ? Cơ hội sẽ là hiện thực nếu ít nhất nền Kinh Tế Việt Nam thực hiện công nghiệp hóa và chuyển dần sang nền kinh tế tri thức .
Thế nhưng công nghiệp hóa thế nào khi với  70% dân số là nông dân , và nền kinh tế vẫn là một nền kinh tế ngông nghiệp. nền kinh tế của mồ hôi và cơ bắp, nền kinh tế gia công?
Nền kinh tế tri thức thế nào khi  không hề có một trường Đại Học nào lọt vào top 200 của châu Á, chứ chưa nói tới tầm thế giới ? Chất lượng của hệ thống giáo dục của Việt Nam xếp thứ 120 trong 130 nước được xếp hạng , nghĩa là nằm trong nhóm 10 nước kém nhất thế giới  !
Giải pháp vốn FDI  chưa thể ,hoặc không thể , gọi là cơ hội cho Việt Nam  vì về bản chất chúng là vốn vay , và Việt Nam chưa sử dụng chúng có hiệu quả. Thậm chí trong dài hạn vốn FDI có thể trở thành nguy cơ , như đã chứng kiến ở một số nước đang phát triển khác !
Giải pháp cạnh tranh ?  Cạnh tranh thế nào khi Việt Nam liên tục có mặt ở nhóm thứ hạng thấp của bảng xếp hạng sức cạnh tranh tăng trưởng toàn cầu của Diễn Đàn Kinh Tế Thế Giới ( WEF ) suốt từ 2003 tới nay ? Sự thực là  một nền kinh tế nặng về gia công  như Việt Nam rất khó có cơ hội cạnh tranh .                
    
Giải pháp tăng trưởng GDP ?  Đối với giải pháp này , nếu không có một phương cách  thực sự khả thi nào đó , mà chỉ hô hào bằng những ngôn từ “ đao to  búa lớn ” kiểu chạy đua chẳng hạn , thì đây quả một câu chuyện dành cho “ những người thích đùa ”,vì khoảng cách tụt hậu của Việt Nam với các nước khác đã là quá xa  !
Thí dụ , với mức thu nhập bình quân đầu người hiện nay là trên dưới 1000USD, Việt Nam cần có mức tăng trưởng liên tục là  hơn 15 % mỗi năm  thì mới có cơ may nhìn thấy bóng của các quốc gia đang chạy ở phía trước . Tuy nhiên trong tình hình hiện nay thì con số đó là không tưởng  ! Ngay cả con số 10% cũng là một giấc mơ , vì mấy thập kỷ qua Việt Nam chưa hề chạm đến con số này cả !
Tuy nhiên , ngay cả khi Việt Nam đạt được mức tăng trưởng 10%  đi nữa , thì các nước khác với thu nhập bình quân đầu người hơn Việt Nam nhiều lần sẽ dễ dàng duy trì khoảng cách hiện có với Việt Nam mà chỉ cần tốc độ tăng trưởng thấp hơn nhiều lần .
Thí dụ , Thái Lan chỉ cần mức tăng trưởng  2,5% , Malaysia 1,25% , và Singapore 0,25 % ! Nhưng thực tế họ tăng trưởng với những con số cao hơn rất nhiều ! Nghĩa là khoảng cách thực tế giữa họ với Việt Nam là ngày càng xa chứ không gần lại !
Theo một thống kê khác , để  không bị tụt hậu xa hơn , tốc độ tăng trưởng GDP của Việt Nam cần phải cao gấp 2 lần tốc độ tăng của khu vực Đông Nam Á , gấp 4 lần châu Á , và gấp 9 lần  tốc độ tăng trung bình của thế giới ! Đó cũng là một điều không tưởng , mặt khác giả sử Việt Nam có thể đạt tốc độ cao như thế trong một khoảng thời gian nào đó , thì “ sức nóng tăng trưởng ”cũng đủ nguy cơ hủy diệt cả một nền kinh tế !
Tạm kết phần I
Bây giờ  Việt Nam phải làm thế nào đây? Đã đến lúc Việt Nam cần những giải pháp căn cơ và thực tế, điều căn bản là những giải pháp đó phải được sự đồng thuận và góp sức của cả một dân tộc. Đó là đó là chân lý và cũng là bài học thành công của những nền kinh tế mạnh hiện nay.

NGUYỄN ĐẠI HOÀNG
               3/2013

Đăng nhận xét

[blogger]

Author Name

Biểu mẫu liên hệ

Tên

Email *

Thông báo *

Được tạo bởi Blogger.