Blog này chuyên cung cấp các tài liệu miễn phí cho các bạn cần. Hãy click vào baner quảng cáo để ủng hộ mình nhé !

PHIẾM BÀN VỀ HOÀNG HẠC LÂU (Nguyễn Đại Hoàng)

Hôm nay, xin giới thiệu với các bạn một bài viết khác của anh NĐH, một bài mà tôi cho rằng không cần lời dẫn, dù tôi đã từng được anh NĐH khen là viết lời dẫn rất duyên dáng (!) - một lời khen mà tôi nghe xong thì rất thích! :-)

Sở dĩ hôm nay tôi không dám viết lời dẫn là bởi vì bài viết ở dưới rất hay rồi, viết lời dẫn vào đấy thì e rằng nó không làm cho hay hơn mà sẽ làm hỏng bài viết đi. Nên thôi, cứ để các bạn tự cảm nhận, thưởng thức.

Nói thêm một câu: Blog này của tôi hình như đang dần trở thành nơi để đăng bài của anh NĐH thì phải! :-) Vì anh NĐH viết rất đều và rất nhiều, mà đa số toàn là bài hay cả. Còn tôi thì tùy hứng, lúc cao hứng thì viết nhiều nhưng nếu không có hứng thì đành để cho blog ... "man mác muôn đời mây trắng bay" thôi! (Ai không biết câu trích dẫn là ở đâu ra xin đọc bên dưới nhé.)

Enjoy!
---------------------

PHIẾM BÀN VỀ HOÀNG HẠC LÂU
Thôi Hiệu là một nhà thơ thuộc vào loại nổi tiếng nhất Trung Quốc từ xưa tới nay. Và bài thơ làm nên tên tuổi của ông chính là bài Hoàng Hạc Lâu. Tương truyền rằng khi Lý Bạch đến chơi Hoàng Hạc Lâu, thấy bài thơ này của Thôi Hiệu đề trên vách, bèn vứt bút không làm thơ nữa !

Bài ấy như sau :
黃鶴樓
昔人已乘黃鶴去,
此地空餘黃鶴樓。
黃鶴一去不復返,
白雲千載空悠悠。

晴川歷歷漢陽樹,
芳草萋萋鸚鵡洲。
日暮鄉關何處是,
煙波江上使人愁。


Hoàng Hạc Lâu
Tích nhân dĩ thừa hoàng hạc khứ
Thử địa không dư hoàng hạc lâu
Hoàng hạc nhất khứ bất phục phản
Bạch vân thiên tải không du du
Tình xuyên lịch lịch Hán Dương thụ
Phương thảo thê thê Anh Vũ châu
Nhật mộ hương quan hà xứ thị
Yên ba giang thượng sử nhân sầu


Dịch nghĩa
Người xưa đã cưỡi hạc vàng bay đi,(2)
Nơi đây chỉ còn lại lầu Hoàng Hạc
Hạc vàng một khi bay đi đã không trở lại
Mây trắng ngàn năm vẫn phiêu diêu trên không
Mặt sông lúc trời tạnh, phản chiếu cây cối Hán Dương (3) rõ mồn một
Cỏ thơm trên bãi Anh Vũ (4) mơn mởn xanh tươi
Trời về chiều tối, tự hỏi quê nhà nơi đâu?
Trên sông khói tỏa, sóng gợn, khiến người sinh buồn!


Ghi chú:
(1) Ở phía tây nam thành Vũ Xương
(2) Tục truyền Phí Văn Vĩ thành tiên, thường cưỡi hạc về nghỉ ở Hoàng Hạc lâu
(3) Một địa điểm bên sông Dương Tử tỉnh Hồ Bắc
(4) Khu bãi bến khúc sông thuộc Vũ Xương tỉnh Hồ Bắc

Bài này người Tây cũng có dịch khá nhiều . Cụ thể là hai bản dịch sau đây :

Bản Tiếng Pháp:
Le Pavillon de la Grue Jaune
Monté sur une grue jaune, jadis, un homme s'en alla pour toujours;
Il ne resta ici que le Pavillon de la Grue Jaunẹ
La grue jaune, une fois partie, n'est jamais revenue;
Depuis mille ans les nuages blancs flottent au ciel, à perte de vuẹ
Par temps clair, sur le Fleuve, on distingue les arbres de Han Yang;
Sur l'Ile des Perroquets, les herbes parfumées forment d'épais massifs.
Voici le soir qui tombẹ Où donc est mon pays natal ?
Que la brume et les vagues sont tristes sur le Fleuve!

P. Demiéville (Anthologie de la poésie chinoise classique, Gallimard, Paris, 1962)

Bản Tiếng Anh:
Home Longings
Here a mortal once sailed up to Heaven on a crane,
And the Yellow-Crane Kiosque will for ever remain;
But the bird flew away and will come back no morẹ
Though the white clouds are there as the white clouds of yore.
Away to the east lie fair forests of trees,
From the flowers on the west comes a scent-laden breeze,
Yet my eyes daily turn to their far-away home,
Beyond the broad River, its waves, and its foam.

H. A. Giles (Chinese poetry in English verse, London, 1898)

Ở Việt Nam có khá nhiều bản dịch Hoàng Hạc Lâu, trong đó có những tên tuổi như Ngô Tất Tố, Vũ Hoàng Chương, Trần Trọng Kim … nhưng bản dịch của Trần Trọng San và Tản Đà là được nhắc đến nhiều hơn cả.

Bản dịch của Ngô Tất Tố
Người xưa cưỡi hạc đã cao bay,
Lầu hạc còn suông với chốn nàỵ
Một vắng hạc vàng xa lánh hẳn,
Nghìn năm mây bạc vẩn vơ baỵ
Vàng gieo bến Hán, ngàn cây hửng,
Xanh ngắt châu Anh, lớp cỏ dầỵ
Trời tối quê hương đâu tá nhỉ ?
Đầy sông khói sóng gợi niềm tây.


Bản dịch của Vũ Hoàng Chương:
Xưa cánh hạc bay vút bóng người
Nay lầu Hoàng Hạc chút thơm rơi
Vàng tung cánh hạc, bay bay mãi
Trắng một mầu mây, vạn vạn đời
Cây bến Hán Dương còn nắng chiếu
Cỏ bờ Anh Vũ chẳng ai chơi
Gần xa chiều xuống, đâu quê quán ?
Đừng giục cơn sầu nữa sóng ơi !


Bản dịch của Trần Trọng Kim:
Người đi cưỡi hạc từ xưa,
Đất này Hoàng Hạc còn lưu một lầu.
Hạc vàng đi mất đã lâu,
Ngàn năm mây trắng một màu mênh mông.
Hán Dương cây bóng lòng sông,
Bãi kia Anh Vũ cỏ trông xanh rì.
Chiều hôm lai láng lòng quê,
Khói bay sóng vỗ ủ ê nỗi sầu.


Bản dịch của Trần Trọng San:
Người xưa cưỡi hạc bay đi mất,
Riêng lầu Hoàng Hạc vẫn còn đây.
Hạc đã một đi không trở lại,
Man mác muôn đời mây trắng bay.
Hán Dương sông tạnh, cây in thắm,
Anh Vũ bờ thơm, cỏ biếc dày.
Chiều tối, quê nhà đâu chẳng thấy
Trên sông khói sóng gợi buồn ai.


Và cuối cùng là bản dịch của Tản Đà:
Lầu Hoàng Hạc
Hạc vàng ai cưỡi đi đâu
Mà đây Hoàng Hạc riêng lầu còn trơ
Hạc vàng đi mất từ xưa
Nghìn năm mây trắng bây giờ còn bay
Hán Dương sông tạnh cây bày
Bãi xa Anh Vũ xanh dầy cỏ non
Quê hương khuất bóng hoàng hôn
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai.


Bình & Tạm kết:
1. Tôi biết bài thơ này từ nhỏ. Quê tôi vùng sông nước, nhà sát bên một ngôi cổ tự, nên thường được nghe sư cụ ngâm nga giảng giải nào là Đề Tích Sở Kiến Xứ, Phong Kiều Dạ Bạc, Tầm Ẩn Giả Bất Ngộ…và Hoàng Hạc Lâu !

Đến hồi lên trung học tôi cũng thường được nghe các thầy Nguyễn Khắc Trừng, Hạc
Thành Hoa bình luận về Thôi Hiệu và Hoàng Hạc Lâu nên càng mê lắm. Cũng đôi lần tôi vỏ vẻ dịch làm chơi nhưng đem khoe sư cụ, thấy thầy đọc xong mà cười ha hả là biết kết quả rồi ! Thầy thường chỉ đọc thơ bằng chữ Hán Việt hơn là các bài dịch ra Tiếng Việt, thí dụ :

Sơ tam sơ tứ nguyệt mông lung
Bán tự ngân câu bán tự cung


Hay :
Hoàng Hạc nhất khứ bất phục phản
Bạch vân thiên tải không du du


Tôi hỏi thì thầy nói các bản dịch không toát được cái thần thái ý tứ của bài thơ. Mà tôi
nghiệm ra cũng thấy có lý. Bài Hoàng Hạc Lâu này chẳng hạn, ngoại trừ bài dịch của
Tản Đà, và phần nào đó là bản dịch của Trần Trọng San, còn mấy bản dịch kia có vẻ khá gượng ép, miễn cưỡng. Thí dụ trong bản dịch của các cụ nói trên thì ngay câu đầu tiên tôi thấy đã có phần không ổn.


Bản dịch của Ngô Tất Tố: Người xưa cưỡi hạc đã cao bay – thì hai chữ cao bay dễ làm
cho ta liên tưởng tới cụm từ cao bay xa chạy – vốn không có ý nghĩa tốt đẹp lắm.


Bản dịch của Vũ Hoàng Chương : Xưa cánh hạc bay vút bóng người.Trong câu này chữ bay vút theo tôi là hỏng !

Bản dịch của Trần Trọng Kim : Người đi cưỡi hạc từ xưa. Trong câu này nếu đặt lại
thành cưỡi hạc người đi thì nghe còn được. Chứ nếu như vậy thì đã đi lại còn cưỡi nữa !


Bản dịch của cụ Trần Trọng San thì khá mẫu mực nhưng tôi đọc không thấy cảm xúc như bản dịch của Tản Đà, dù cụ này dịch ra theo thể lục bát. Thế nhưng chính bài dịch của cụ Tản Đà cũng phải chịu nhiều lời phê bình trái ngược nhau !

Điều đó có nghĩa là Hoàng Hạc Lâu vẫn còn là bài thơ chờ người dịch.

2. Mấy chục năm sau trở lại chùa xưa thăm mộ thầy, mộ thì hiu hắt còn chùa xuống cấp không còn ai tu. Chú tiểu năm xưa lên làm trụ trì. Không biết chữ Nho, cũng không ham thích thơ văn, nên tủ sách của thầy tôi mối xông gần hết. Tôi phải xin vào dọn dẹp bảo quản. Và tôi không kìm được nước mắt tìm lại được những bài tập viết, những bài dịch thơ chữ Việt, chữ Nho của tôi thuở trước. Thầy tôi để trong một cái túi vải lại có bọc nilon dày thành ra còn gần như nguyên vẹn. Thế mà thầy đã đi rồi. Không bao giờ trở lại.

3.Đêm đó tôi ở lại chùa, với rất nhiều cảm xúc và đau lòng, và thật là bất ngờ là tôi đã
dịch xong được bài Hoàng Hạc Lâu.- điều mà những năm thanh xuân tôi không bao giờ làm được. Bấy giờ là nửa đêm ngày 25 tháng 8 Âm Lịch năm 2008. Tính ra đã hơn 4 năm, hôm nay xin mạo muội giới thiệu cùng quý vị :


Lầu Hoàng Hạc
Cưỡi hạc người đi từ vạn thuở
Để lầu Hoàng Hạc đứng trơ đây
Ngàn năm mây trắng chẳng thôi bay
Muôn kiếp hạc vàng không trở lại
Anh Vũ cỏ xanh thơm ngoài bãi
Hán Dương cây trải bóng ven sông
Quê hương chiều lữ thứ mênh mông
Khói sóng trường giang buồn tịch mịch.

Nguyễn Đại Hoàng
3/2013

----------
PS1: Các bạn có thấy trong bài thơ có từ Anh Vũ, và từ này được nhắc đi nhắc lại nhiều lần trong các bản dịch không? Anh Vũ, tên của blog này, là tên và họ của tôi, và cũng là bút danh hồi còn trẻ nữa. Và một trong những lý do tôi lấy bút hiệu Anh Vũ cũng là vì bài thơ này đấy. Tôi rất mê bản dịch của Tản Đà, dù cho có ai nói gì đi nữa!

PS2: Câu nhận xét của tôi ở trên ("blog này dần thành nơi đăng bài của anh NĐH thì phải") chỉ là một nhận xét có tính đùa vui, vì tên của blog là bloganhvu thì lẽ ra phải đăng bài của Anh Vũ. Nhưng khi đọc lại tôi mới thấy hình như nó có thể được hiểu rằng tôi đang than phiền anh NĐH đăng nhiều quá trên blog này? Nếu vậy, xin được làm rõ: tôi viết câu đó với ý "hàm ơn" vì anh NĐH đã ưu ái gửi bài cho tôi đăng, để blog không bị "buồn tịch mịch" thôi.

Mà quả đúng vậy, từ ngày có bài đều đặn - mà nhiều bài của anh NĐH - thì bloganhvu thu hút được nhiều độc giả hơn nhiều. Nên bây giờ bloganhvu sẽ được hiểu là blog để đăng bài của Anh Vũ và bạn bè của AV, các bạn nhé!

PS3: Đăng bài này lên được mấy ngày thì tôi nhận được comment của anh Xuân Lộc giới thiệu một bài viết khác cũng bàn về chính bài thơ này. Thú vị hơn là trong entry của anh có thêm mấy bản dịch khác, trong đó có cả bản dịch của GS Nguyễn Huệ Chi, tác giả của bài bình thơ ấy. Chép luôn lên đây để lưu và để mọi người cùng so sánh, thưởng thức luôn!

Nói thêm: Tôi rất thích bản dịch của Vũ Hoàng Chương, một bản dịch mà như anh XL nói, thật đầy tâm trạng. Đặc biệt, 2 câu cuối cùng của bản dịch của VHC làm tôi nhớ một câu thơ mà chính tôi đã dịch cho bài thơ Le Mirabeaux và đã đăng blog này trước đây.

Câu của VHC như thế này:

"Gần xa chiều xuống đâu quê quán/Đừng giục cơn sầu nữa sóng ơi".

Còn câu của tôi - tất nhiên, tôi xách dép cho VHC cũng chẳng được, mặc dù ... là bà con, cùng họ Vũ mà! - sao tôi thấy cũng có chút gì hao hao, mà hoàn toàn trùng hợp ngẫu nhiên, không đạo văn gì cả vì hôm nay tôi mới biết bản dịch này của VHC:

"Đời mệt nhoài, tình xa vời vợi/Dữ dội chi tiếng sóng lòng ơi!"

Thơ, đúng là một nơi trú ẩn của cho tâm hồn mệt mỏi của chúng ta, phải không các bạn. Thì, tôi đã từng nói rồi còn gì: Nơi trú ẩn của tôi/Là thơ đấy ...

------------

Tùng Vân Nguyễn Đôn Phục 
Người tiên xưa cưỡi Hạc vàng cút,
Ở đây chỉ những lầu hạc trơ,
Hạc vàng đã cút chẳng về nữa,
Mây trắng ngàn năm còn phất phơ.
Sông bọc Hán Dương cây xát xát,
Cỏ tiên Anh Vũ bãi xa xa.
Ngày chiều làng cũ đâu chăng tá?
Mây nước trên sông khách thẫn thờ !(1)


Nguyễn Khuê 
Cưỡi hạc người xưa đi đã lâu,
Còn đây Hoàng Hạc chỉ trơ lầu,
Hạc vàng biền biệt từ xưa ấy
Mây trắng lững lờ đứng mãi sau.
Sông lạnh Hán Dương cây lắng bóng,
Bãi thơm Anh Vũ cỏ tưoi màu.
Chiều buồn quê cũ nơi nào nhỉ?
Khói sóng trên sông giục khách sầu.

Khương Hữu Dụng
 
Ai cưỡi Hạc vàng đi mất hút,
Trơ lầu Hoàng Hạc chốn này thôi
Hạc vàng một đi đã đi biệt
Mây trắng ngàn năm bay chơi vơi.
Sông tạnh Hán Dương cây sáng ửng,
Cỏ thơm Anh Vũ cỏ xanh ngời,
Hoàng hôn về đó,quê đâu tá?
Khói sóng trên sông não dạ người.

Và cuối cùng là ...

GS Nguyễn Huệ Chi
 Hạc vàng người trước cưỡi đi rồi
Lầu trống còn tên Hoàng Hạc thôi,
Một thuở hạc vàng không trở lại,
Nghìn năm mây trắng vẫn đang trôi.
Hán Dương cây đứng soi sông sáng,
Anh Vũ cỏ non biếc bãi bồi.
Chiều tối quê hương nhìn chẳng thấy
Trên sông khói sóng dạ bồi hồi.

Đăng nhận xét

[blogger]

Author Name

Biểu mẫu liên hệ

Tên

Email *

Thông báo *

Được tạo bởi Blogger.